Trong những di sản văn hóa do triều Nguyễn (1802 – 1945) để lại trên đất Huế có một loại di sản vật thể rất đặc biệt. Đó là Pháp lam Huế. Pháp lam (pháp lang) là một sản phẩm có cốt bằng đồng, bên ngoài tráng men, có nguồn gốc từ vùng Trung Á. Nghề làm pháp lam huy hoàng và tồn tại qua 5 đời vua triều Nguyễn và để lại những giá trị tuyệt mĩ.
Nguồn gốc xuất xứ Pháp lam
Theo Bảo tàng Cổ vật Cung đình Huế, pháp lam được chia thành bốn loại dựa trên phương pháp chế tác và tráng men: Kháp ti pháp lang, Họa pháp lang, Tạm thai pháp lang và Thấu minh pháp lang. Một trung tâm pháp lam nổi tiếng của Trung Quốc xưa là Quảng Đông, từ đó sản phẩm họa pháp lang theo tàu buôn Trung Hoa đến Việt Nam.

Tên gọi “pháp lam” là do triều Nguyễn đặt cho những chế phẩm bằng đồng tráng men nhiều màu, dựa trên kỹ nghệ “pháp lang” (falang) của Trung Quốc. Với người Trung Quốc, pháp lam là sản phẩm đồng phủ men màu, với nhiều cách chế tác và tráng men khác nhau.
Lịch sử khai sinh, tồn tại, phát triển, suy thoái và thất truyền của pháp lam Huế kéo dài chỉ hơn 60 năm (1827 – 1888), trong khi, lịch sử tồn tại và phát triển của kỹ nghệ chế tác pháp lang Trung Hoa kéo dài hơn 700 năm. Vì thế, kỹ nghệ chế tác pháp lang của Trung Hoa, từ tạo dáng, chế men, pha màu, thủ pháp trang trí, kỹ thuật nung đốt… đều hơn hẳn pháp lam Huế của triều Nguyễn.

Pháp lam không phổ biến trong dân gian, mà chủ yếu dành cho hoàng cung triều Nguyễn. Sau năm 1945, số lượng hiện vật pháp lam còn lại rất ít, kỹ thuật chế tác cũng đã thất truyền, dù nhiều nỗ lực khôi phục nghề này đã được thực hiện nhưng không thành công.
Pháp lam Huế
Pháp lam Huế phát triển mạnh dưới triều Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức, khi triều Nguyễn thịnh vượng và quốc gia ổn định. Các nghệ nhân Huế với kỹ thuật phối màu độc đáo và khả năng chống chịu thời tiết khắc nghiệt miền Trung đã sử dụng pháp lam để trang trí ngoại thất cung điện, đền miếu, như điện Thái Hòa, Hòa Khiêm, Biểu Đức.
Các đồ án pháp lam xoay quanh chủ đề rồng phượng, hoa lá, thơ văn, với màu sắc truyền thống như tím, đỏ, xanh lam, vàng. Ngoài trang trí cung đình, pháp lam còn được dùng cho đồ gia dụng, đồ tế tự và lưu niệm như bát, đĩa, lư trầm, bình hoa. Pháp lam thời Nguyễn có phong cách riêng, khác với pháp lam thời Minh và Thanh của Trung Quốc, thể hiện tài năng của nghệ nhân Việt Nam.

Căn cứ vào các tác phẩm còn lưu giữ ở Bảo tàng Cổ vật Cung đình Huế, cho thấy dòng pháp lam thời Nguyễn có đặc trưng riêng, không rập khuôn với dòng pháp lam thời Minh và thời Thanh ở Trung Quốc. Đây chính là thành tựu đáng trân trọng của các nghệ nhân pháp lam Việt Nam xưa.

“Nét vẽ của Pháp lam Huế tuy thô mộc, nhưng chứa đầy cảm xúc, khác hẳn tính cầu kỳ của pháp lam Trung Quốc hay phô bày kỹ thuật cao của Pháp lam Nhật bản.”