chén GÀ (KÊ CANG) SỨ NHỮ DIÊU
CHẤT LIỆU | Nhữ diêu |
---|---|
DUNG TÍCH | 100 ml |
CHẾ TÁC | Toàn thủ công |
PHONG CÁCH | Chén gà (kê cang) |
Chén gà sứ Nhữ diêu với các vết nứt tự nhiên trên lớp men, được sắp xếp rất chi tiết và có trật tự. Men nguyên khoáng mã não với màu men Vũ quá thiên thanh (bầu trời sau cơn mưa). Chén “gà” hay “kê cang“ có miệng rộng, bụng nông và đáy chén thấp. Trên chén được vẽ hình gà trống, gà mái và gà con, cùng với các hình ảnh núi đá, hoa lan, hoa mẫu đơn, nên chén được đặt tên là “kê cang”. Chén này nổi tiếng từ thời Minh, đặc biệt là các chén “Đấu Thái” dưới triều Thành Hóa. Thời Khang Hy và Ung Chính, các bản sao của chén này rất hoàn hảo, khó phân biệt với bản gốc. Chén Minh Thành Hóa từng được đấu giá với giá rất cao.
Gốm Nhữ được đánh giá là một trong những dòng gốm có địa vị cao nhất trong lịch sử gốm sứ nhân loại.
Điểm đặc biệt của gốm Nhữ là các vết rạn, vết nứt tự nhiên trên lớp men, được sắp xếp rất chi tiết và có trật tự. Đặc tính này đến từ chất men mã não nguyên khoáng, mang lại cho gốm Nhữ những hoa văn nổi bật trên bề mặt và vô số bong bóng nhỏ trong men tựa như sao mai trên trời, rất nghệ thuật, tùy theo nhiệt độ và vị trí lò nung mà đạt được.
Nhữ Diêu thời Bắc Tống nổi tiếng với kỹ thuật nung tràn men, hay còn gọi là kỹ thuật Chi Đinh 3-5. Đây là một đặc điểm quan trọng trong nghệ thuật gốm của họ. Tuy nhiên, đây là một kỹ thuật khó và đầy rủi ro, khiến tỉ lệ thất bại cao và tăng chi phí sản xuất mỗi sản phẩm.
Trong các tài liệu cổ về Nhữ Diêu, đặc biệt là trong thời kỳ chính tông ở thời Bắc Tống, kỹ thuật này thường được sử dụng để tạo ra các sản phẩm gốm của Nhữ.
Tác phẩm: CHÉN GÀ SỨ NHỮ DIÊU
Tìm hiểu thêm về chén chủ/chén tống