chén trúc đoạn (chén tre) SỨ NHỮ DIÊU
CHẤT LIỆU | Nhữ diêu |
---|---|
DUNG TÍCH | 120 ml |
CHẾ TÁC | Toàn thủ công |
PHONG CÁCH | Chén trúc đoạn (chén tre) |
Chén trúc sứ Nhữ diêu của đại sư Vương Tuấn Tử được làm hoàn toàn thủ công, với các vết nứt tự nhiên trên lớp men, được sắp xếp rất chi tiết và có trật tự. Men nguyên khoáng mã não với màu men Vũ quá thiên thanh (bầu trời sau cơn mưa). Chén trúc (chén tre) với hình dạng như một đoạn trúc/ đoạn tre, là dáng chén phổ biến trong thưởng trà.
Gốm Nhữ được đánh giá là một trong những dòng gốm có địa vị cao nhất trong lịch sử gốm sứ nhân loại.
Điểm đặc biệt của gốm Nhữ là các vết rạn, vết nứt tự nhiên trên lớp men, được sắp xếp rất chi tiết và có trật tự. Đặc tính này đến từ chất men mã não nguyên khoáng, mang lại cho gốm Nhữ những hoa văn nổi bật trên bề mặt và vô số bong bóng nhỏ trong men tựa như sao mai trên trời, rất nghệ thuật, tùy theo nhiệt độ và vị trí lò nung mà đạt được.
Nhữ Diêu thời Bắc Tống nổi tiếng với kỹ thuật nung tràn men, hay còn gọi là kỹ thuật Chi Đinh 3-5. Đây là một đặc điểm quan trọng trong nghệ thuật gốm của họ. Tuy nhiên, đây là một kỹ thuật khó và đầy rủi ro, khiến tỉ lệ thất bại cao và tăng chi phí sản xuất mỗi sản phẩm.
Trong các tài liệu cổ về Nhữ Diêu, đặc biệt là trong thời kỳ chính tông ở thời Bắc Tống, kỹ thuật này thường được sử dụng để tạo ra các sản phẩm gốm của Nhữ.
Tác phẩm: CHÉN TRÚC ĐOẠN (CHÉN TRE) SỨ NHỮ DIÊU
Tìm hiểu thêm về chén chủ/chén tống
Sơ lược về đại sư Vương Tuấn Tử: Ông là người thừa kế đại diện quốc gia của di sản văn hóa phi vật thể quốc gia (kỹ năng nung sứ Nhữ), và là bậc thầy về nghệ thuật gốm sứ tỉnh Hà Nam, tài năng văn hóa dân gian tỉnh Hà Nam, nghệ nhân thủ công mỹ nghệ dân gian tỉnh Hà Nam, thành viên Ủy ban chuyên gia của Nhóm lãnh đạo bảo vệ chỉ dẫn địa lý gốm sứ Ru và giám đốc Viện nghiên cứu đồ sứ Ru ở chùa Qingliang